MỘT SỐ KINH NGHIỆM TỔ
CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP THEO NHÓM TRONG GIẢNG DẠY THEO HỌC CHẾ TÍN CHỈ
GV: Phan Thị Lệ Thúy
Bộ môn: Tài chính – Ngân hàng
I.
Đặt vấn đề
Đổi mới phương
pháp dạy học là nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Một trong những phương pháp
đổi mới hiện được các trường Đại học đánh giá mang lại hiệu quả cao là phương
pháp thảo luận theo nhóm. Hiện nay, học tập theo nhóm vừa là một yêu cầu vừa là
một phương pháp học được khuyến khích áp dụng rộng rãi, nhất là đối với sinh
viên. Trong xu thế hội nhập của đất nước, vai trò của phương pháp học này càng
trở nên quan trọng trong việc góp phần nâng cao hiệu quả học tập của người học
nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung.
Dạy
học theo nhóm là một phương pháp giảng dạy trong
đó người dạy sẽ tổ chức người học thành những nhóm nhỏ để thực hiện các hoạt
động như: thảo luận, đóng vai, giải quyết vấn đề,... Mỗi thành viên không chỉ
có trách nhiệm thực hiện các hoạt động của nhóm mà còn phải có trách nhiệm hợp
tác, giúp đỡ các thành viên trong nhóm hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Đây
là một phương pháp giảng dạy khá ưu việt, cho phép rèn luyện kỹ năng làm
việc nhóm cho sinh viên hiện đang được áp dụng rộng rãi cho nhiều môn học và
trong nhiều trường Đại học trên thế giới.
Trong mỗi chúng ta ai cũng biết được vai trò của việc học tập theo nhóm.
Nhưng có một thực tế đặt ra hiện nay là làm sao để việc học tập theo nhóm được
hiệu quả? Bên cạnh đó do đặt thù của Khoa Kế toán – Tài chính là sinh viên mỗi
lớp rất đông, việc quản lý lớp học theo nhóm rất khó. Nếu
sử dụng phương pháp học tập theo nhóm không đúng cách, không phù hợp với nội
dung và thiếu kỹ năng thực hiện thì có thể chỉ mang tính hình thức, gây mất
nhiều thời gian, sản phẩm không mang tính tập thể, các cá nhân thiếu tích cực
sẽ đùn đẩy cho những người năng nổ, nhiệt tình...Chính vì vậy, tôi chọn đề tài: “MỘT SỐ KINH NGHIỆM TỔ CHỨC
HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP THEO NHÓM TRONG GIẢNG DẠY THEO HỌC
CHẾ TÍN CHỈ” nhằm chia sẻ một số kinh nghiệm tổ chức hoạt động học tập
theo nhóm của bản thân.
II. Đánh giá tổng quát thực trạng học tập
theo nhóm của sinh viên
2.1.
Thực trạng
2.1.1
Mặt đã làm được:
-
Phần lớn sinh viên đã nhận thấy được vai trò và ý nghĩa của phương pháp học tập
theo nhóm đối với việc học tập của sinh viên. Nhiều sinh viên rất hào hứng khi
thực hiện học tập theo nhóm.
-
Các giảng viên đã tích cực vận dụng phương pháp học tập theo nhóm cho sinh viên
trong quá trình giảng dạy giúp sinh viên tự tìm hiểu kiến thức và rèn luyện khả
năng làm việc tập thể.
-
Qua việc học tập theo nhóm các thành viên thấy được vai trò của mình đối với
tập thể, bước đầu thành thạo được nhiều kỹ năng. Học tập theo nhóm đã tạo cơ
hội cho các thành viên được thể hiện mình nên các bạn trở nên mạnh dạn hơn, tự
tin hơn, có trách nhiệm hơn ...
-
So với các phương pháp học tập khác trong sinh viên hiện nay thì học tập theo
nhóm đang đem lại nhiều lợi ích, nó đã tăng cường sự gắn kết các thành viên
trong lớp hơn, giúp mỗi thành viên thu nhận và nắm vững nhiều kiến thức hơn.
-
Học tập theo nhóm đã tạo ra nhiều sản phẩm trí tuệ rất phong phú và chất lượng
được thầy cô ghi nhận, đánh giá cao.
2.1.2
Mặt còn hạn chế
-
Hiệu quả của hoạt động nhóm còn chưa cao, phần lớn hoạt động nhóm còn mang tính
hình thức, chú trọng tạo ra sản phẩm để nộp thầy cô mà ít chú trọng đến quá
trình hợp tác nhóm để tạo ra sản phẩm.
-
Hầu hết sinh viên đều thiếu và yếu về các kỹ năng làm việc nhóm, đặc biệt là kỹ
năng giải quyết xung đột, kỹ năng chia sẻ trách nhiệm, kỹ năng tự kiểm tra -
đánh giá hoạt động nhóm...
-
Ý thức tham gia, đóng góp ý kiến của sinh viên còn chưa cao, một số sinh viên
còn mang tâm lý trông chờ, ỷ lại...
-
Đa số nhóm trưởng còn thiếu kỹ năng trong điều hành và quản lý hoạt động của
nhóm.
-
Sự tự kiểm tra - đánh giá của nhóm còn thiếu khách quan, mới chỉ coi trọng đánh
giá cho điểm các thành viên chứ chưa đánh giá hoạt động của nhóm.
- Đối với học và thảo luận nhóm
trên lớp: Phần
lớn lớp học quá đông (100 – 150 SV). Do vậy, GV khó lòng theo dõi, đánh giá
chính xác sự đóng góp, tham gia của người học HĐN, gây ra tâm lý ỷ lại của SV
yếu kém vào các thành viên khá, giỏi trong HĐN. Ngoài ra do điều kiện lớp học còn chật chội, cơ sở vật chất chưa đảm
bảo. Vì thế gây khó khăn khá lớn cho việc thảo luận nhóm.
-
Đối với học nhóm ngoài lớp (ngoài giờ học): Do sinh viên chủ yếu là người ngoại
tỉnh, phải ở trọ, nhà trọ lại chật chội, rất khó khăn cho việc tìm địa điểm học
nhóm; cùng với đó là điều kiện cơ sở vật chất (phòng học, thư viện, ...) của
nhà trường cũng chưa đáp ứng được nhu cầu học theo nhóm của sinh viên.
-
Các thầy cô giáo cũng chưa thường xuyên trao đổi, hướng dẫn, cung cấp cho sinh
viên những kỹ năng và phương pháp làm
việc nhóm cho sinh viên. Sinh viên chỉ biết nhận nhiệm vụ là hoàn thành bài tập
bằng cách làm việc nhóm mà chưa biết phải làm việc nhóm như thế nào để hoàn
thành bài tập một cách tốt nhất.
-
Phương pháp làm việc nhóm được áp dụng ở hầu hết các môn. Vì thế nhiều khi sinh
viên phải làm việc nhóm quá nhiều trong cùng một thời gian. Điều đó gây nên tâm
lý mệt mỏi, nhàm chán trong sinh viên. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến
hiệu quả làm việc nhóm.
-
Cán bộ các lớp chưa thực sự phát huy vai trò của mình trong việc tham mưu cho
giảng viên thiết kế nhóm, tự quản và thúc đẩy các hoạt động nhóm…
- Đa số GV đại học ở Đại học Nha
Trang chỉ được bồi dưỡng lý thuyết chung chung về phương pháp giảng dạy, chưa
được huấn luyện cụ thể kỹ năng thiết kế học phần do mình đảm nhiệm. Điều này,
dẫn đến sự đơn điệu trong việc thiết kế, tổ chức HĐN và ít nhiều gây nhàm chán
cho SV.
- .Quỹ thời gian cho từng môn học
quá eo hẹp, gây khó khăn, mệt mỏi cho GV lẫn SV trong tổ chức hoạt động học tập
theo nhóm vì phải làm việc quá tải!
-
Đối với sinh viên năm thứ nhất, các em mới rời ghế nhà trường phổ thông lên học
Đại học, đã quen với kiểu học thuộc của phổ thông, vì thế còn nhiều bỡ ngỡ khi
phải tiếp cận một phương pháp học mới đòi hỏi rất lớn sự tích cực, tự giác tìm
hiểu và chiếm lĩnh tri thức trên cơ sở trao đổi và thảo luận lẫn nhau.
-
Một số sinh viên chưa hình thành cho mình ý thức tích cực và tự giác trong học
tập, làm việc nhóm. Sinh viên chưa chịu khó tìm hiểu để có thể tự trang bị cho
mình những kĩ năng và phương pháp học nhóm có hiệu quả. Từ đó dẫn đến sinh viên
thiếu và yếu về phương pháp, kỹ năng học nhóm: Phương pháp tiến hành hoạt động
nhóm của các nhóm chưa khoa học, chưa hợp lý: Thiếu mục tiêu cụ thể, thiếu kế
hoạch, thiếu nội quy- nguyên tắc nhóm, phân công nhiệm vụ chưa phù hợp v.v...
-
Nhiều nhóm chưa lắng nghe, chưa tạo cơ
hội cho các thành viên được thể hiện, khẳng định mình, được thảo luận và phát
biểu ý kiến. Từ đó dẫn đến tình trạng một số thành viên chán nản, buông xuôi,
phó mặc chỉ tham gia một cách chiếu lệ, đối phó. Vì vậy chưa thực sự phát huy
hết năng lực của mình.
-
Nhóm trưởng chưa thực sự phát huy được vai trò của mình. Chưa có năng lực và kỹ
năng trong việc điều hành nhóm.
-
Chưa thật sự có sự gắn kết giữa các thành viên. Không khí làm việc trong nhóm
chưa thân thiện, cởi mở, ít tạo cơ hội cho các thành viên phát huy năng lực,
khiến các thành viên không muốn tham gia hoặc tham gia một cách rất hình thức.
-
Hiện nay, các nhóm học tập chủ yếu do giảng viên chỉ định với độ lớn của nhóm cao
nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động của nhóm.
III. Vài kinh nghiệm tổ chức hoạt động học tập theo nhóm trong giảng
dạy theo học chế tín chỉ.
Trên cơ sở
thực trạng của việc học nhóm hiện nay. Thông qua quá trình giảng dạy ở tất cả
các lớp học hệ Đại học và Cao đẳng các môn học Tài chính tiền tệ, Định giá DN.
Tôi đã áp dụng một số biện pháp để việc học tập theo nhóm có hiệu quả. Vì vậy
tôi mạnh dạn trình bày một số kinh nghiệm tổ chức hoạt động học tập theo nhóm.
3.1. Hình thành
động cơ hoạt động nhóm:
Với sự tiến bộ phi thường của công
nghệ thông tin và truyền thông, khối lượng thông tin và tri thức đang tăng theo
hàm mũ, đòi hỏi con người phải có khả năng thích ứng nhanh chóng và liên tục,
chẳng những về tri thức mà còn kỹ năng với một tốc độ cực kỳ cao. Do đó, nếu
trước đây việc tích lũy kiến thức nhớ là số 1, thì giờ đây khi các phương tiện
lưu trữ đã đầy đủ và sẳn sàng cho việc truy cập và xử lý thông tin, thì ưu tiên
số 1 lại là khả năng tiếp cận tri thức mới, vận dụng tri thức mới và khả năng
“sinh” ra tri thức mới. Nhưng tri thức là vô cùng vô tận, một người không thể
tự nắm bắt được tất cả, vì vậy đòi hỏi là quá trình giao lưu, trao đổi kiến
thức với nhau. Việc làm nhóm sẽ giúp ích cho sinh viên rất nhiều trong việc
này.
Do
hạn chế của nền giáo dục phổ thông ở nước ta, nhiều sinh viên (SV) mới vào
trường tỏ ra khá rụt rè, thụ động, thờ ơ với sinh hoạt nhóm, sinh hoạt tập thể.
Do vậy, ngay từ tiết học đầu tiên của học phần, giảng viên (GV) cần động viên,
khuyến khích SV tự tin, mạnh dạn thể hiện mình. Bên cạnh đó, để SV thực sự tự
giác, tích cực tham gia hoạt động nhóm (HĐN), cần hình thành cho SV nhận thức
đúng đắn rằng mục tiêu của HĐN không phải chỉ để nâng cao điểm số mà là giúp SV
nắm vững kiến thức môn học, khả
năng ghi nhớ lâu hơn, hiệu quả làm việc tốt hơn,
phát triển năng lực cá nhân, rèn luyện kỹ năng thuyết
trình trước đám đông, kỹ năng giao tiếp, kĩ năng hợp tác, kĩ năng tổ chức,
quản lí, kĩ năng giải quyết vấn đề, có trách nhiệm cao, tinh thần đồng đội,
khuyến khích tinh thần học hỏi lẫn nhau, nhờ đó đáp ứng tốt hơn yêu cầu hiện
nay của xã hội về nguồn nhân lực.
3.2. Tổ chức, quản lý hoạt động nhóm
Ngay từ tiết học đầu tiên của học phần, giảng viên (GV) cần
thông báo cho sinh viên kế hoạch, phương thức tổ chức và đánh giá HĐN.
3.2.1. Chia nhóm:
Việc phân nhóm cần thực hiện sao cho GV có thể theo dõi, đánh
giá HĐN nhưng đồng thời cũng đảm bảo phát huy tính tích cực của mỗi SV. Về lý
thuyết, một nhóm lý tưởng nhất gồm 4 - 6 thành viên. Trong thực tế, tùy theo
quỹ thời gian môn học và quy mô lớp học, GV có thể thay đổi linh hoạt. Với đặc
thù của Khoa Kế toán – Tài chính là số lượng sinh viên rất đông thì có thể chia
nhóm từ 6 -10 thành viên. Những tiết học đầu tiên, sự phân nhóm có thể mang
tính ngẫu nhiên. Tuy nhiên, sau đó GV cần điều chỉnh sao cho có sự cân bằng
trình độ, năng lực học tập giữa SV các nhóm với nhau, nhằm thúc đẩy mối quan hệ
hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập giữa các thành viên trong nhóm.
- Cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hợp lý.
Một
nhóm muốn hoạt động hiệu quả cần phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Cơ cấu của
nhóm gồm:
- Một nhóm trưởng có trách nhiệm tổ chức,
điều hành mọi hoạt động của nhóm, nhóm trưởng có thể do các thành viên trong
nhóm bầu lên hoặc do giảng viên chỉ định.
- Một nhóm phó (nếu quy mô nhóm lớn) để
thay thế, hỗ trợ nhóm trưởng khi nhóm trưởng vắng mặt;
- Một thư ký để ghi chép nội dung, diễn
biến các cuộc họp, thảo luận của nhóm, thư ký có thể được thay đổi theo từng
cuộc họp nhóm hoặc cố định từ đầu đến cuối. Nhóm phải quy định rõ trách nhiệm
cụ thể của từng vị trí trong nhóm, xây dựng mối quan hệ gắn kết giữa các thành
viên trong nhóm.
Người trưởng nhóm có năng lực, nhiệt tình và có uy
tín
Trong
hoạt động của một nhóm, người trưởng nhóm đóng vai trò vô cùng quan trọng, là
người chịu trách nhiệm trước thầy cô, tập thể lớp về hoạt động của nhóm, là
người điều hành và tổ chức công việc của nhóm, đảm bảo cho nhóm đi đúng hướng,
là người động viên thôi thúc mọi người và tháo gỡ khó khăn khi cần thiết ...
Chính vì vậy, người trưởng nhóm sẽ góp phần quyết định thành công của một nhóm
học tập. Nếu một nhóm có người trưởng nhóm có năng lực về học tập và quản lý
(kỹ năng điều hành nhóm), có lòng nhiệt tình và được các thành viên tin tưởng,
yêu mến thì chắc chắn nhóm đó sẽ hoạt động có chất lượng.
3.2.2. Lựa chọn chủ đề cho sinh viên thảo luận:
Việc lựa
chọn chủ đề rất quan trọng. Chủ đề quá khó hoặc quá dễ đối với sinh viên đều
ảnh hưởng đến hoạt động thảo luận của sinh viên. Lựa chọn vấn đề thảo luận phải
hấp dẫn, có tính chất kích thích tính tích cực chủ động làm việc của sinh viên.
Chủ đề thảo luận phải là vấn đề chính của bài học, vấn đề có thể có nhiều hướng
khai thác khác nhau, nhiều cấp độ nhận thức khác nhau. Thường là loại cấp độ
phát hiện và suy luận. Tùy vào từng môn
học có thể lựa chọn những chủ đề gắn liền với những sự kiện có thật ở Việt Nam
và trên thế giới, hoặc những chủ đề cho sinh viên đi thực tế để làm thảo luận
nhóm.
Ví dụ: trong môn Tài chính tiền tệ, GV có thể lựa chọn chủ đề: Phân tích nguyên nhân dẫn đến lạm phát nước
ta liên lục biến động trong năm vừa qua. Tác động của nó đến nền kinh tế nước
ta và biện pháp để góp phần kiềm chế lạm phát. Là sinh viên em phải làm gì để
góp phần cùng đất nước khắc phục hiện tượng này?
Chủ đề thảo luận nhóm có
thể là những chủ đề để cho các nhóm về nhà chuẩn bị, hoặc cũng có thể là những
chủ đề mà các em thảo luận ngay tại chổ, trong đó cần chú ý:
+ Phải
đặt ra nhiệm vụ cụ thể của từng nhóm bằng câu hỏi. Câu hỏi phải rõ ràng, không
mập mờ, đánh đố.
+ Phải
có hướng dẫn cụ thể về yêu cầu và định hướng cách thức làm việc.
+ Thời gian thảo luận phải tương ứng với nội dung yêu cầu
của vấn đề thảo luận
3.2.3. Bố trí thời gian:
Hoạt động nhóm cần diễn ra thường xuyên và
xen kẽ với hoạt động thuyết giảng của GV (chẳng hạn, cuối một tiết giảng, sau
khi kết thúc một chủ đề hay trước khi chuyển sang một chủ đề mới). Điều này, sẽ
giúp SV đỡ nhàm chán và GV kịp thời nắm bắt mức độ tiếp thu của SV, từ đó định
hướng điều chỉnh, bổ sung kiến thức, tài liệu tham khảo cho SV.
Với những chủ đề SV về nhà chuẩn
bị thì phải xác định thời gian cụ thể là khi nào sẽ thuyết trình, thời gian tối
đa và tối thiểu dành cho mỗi chủ đề là bao nhiêu để SV có thể chủ động.
Với những chủ đề mà đòi hỏi sự
vận dụng kiến thức của cả môn học thì giáo viên có thể cho sinh viên trình bày
vào những tiết cuối khi kết thúc môn học.
3.2.4. Tổ chức thảo luận nhóm
Thường có hai
phương án để GV cho sinh viên trình bày
bài nhóm: thứ nhất, là gọi ngẫu nhiên bất kỳ người nào trong nhóm lên thuyết
trình; thứ hai, là cho SV chọn người để thuyết trình.
Để đảm bảo tất
cả mọi thành viên trong nhóm đều phải làm việc, tránh tình trạng ỷ lại vào
người khác thì ngay từ ngày đầu tiên, khi phân công làm nhóm chúng ta thông báo trước lớp là có thể chúng ta sẽ
chọn 1 trong 2 phương án.
Nếu chúng ta
lựa chọn phương án thứ hai thì chúng ta có thể gọi ngẫu nhiên bất kỳ thành viên
nào trong nhóm lên nói tóm tắt những nội dung mà nhóm đã làm. Sau đó mới cho
nhóm thuyết trình. Việc làm này sẽ giúp tránh được tình trạng công việc chỉ tập
trung trong một số sinh viên và không phát huy được tác dụng của việc làm nhóm.
Nếu nhóm nào
có người không chuẩn bị bài mà nhóm trưởng không chịu báo thì cả nhóm sẽ bị trừ
điểm. Hãy tạo không khí lớp học sôi nổi bằng cách cho các thành viên trong lớp
được thảo luận về vấn đề mà sinh viên trình bày. Giảng viên chỉ đóng một vai
trò như là cầu nối để các sinh viện làm việc với nhau.
Khi một nhóm
thuyết trình, các nhóm còn lại chú ý theo dõi và sau đó sẽ tiến hành nhận xét,
đặt ra những câu hỏi. Những nhóm có câu hỏi hay và nhận xét chính xác thì cũng
sẽ được cộng điểm. Nhưng để đảm bảo cho mọi thành viên trong lớp đều chú ý lắng
nghe, giảng viên có thể chỉ bất kỳ thành viên của các nhóm còn lại sẽ nhận xét
và đưa ra câu hỏi.
Thường thì
sinh viên sẽ đặt ra rất nhiều câu hỏi. Tránh tình trạng thời gian trả lời câu
hỏi quá dài. GV có thể chọn ra những câu hỏi hay để nhóm thuyết trình trả lời.
SV nhóm trả lời câu hỏi cũng do GV chỉ ngẫu nhiên. Những câu hỏi còn lại có thể
cho sinh viên về nhà trả lời và gửi lại cho cả lớp và giảng viên.
Ngoài những
vấn đề đã được chuẩn bị trước, giảng viên có thể đặt ra những câu hỏi bất ngờ.
Những câu hỏi gợi sức sáng tạo từ phía sinh viên.
Trong quá trình sinh viên thảo luận, giảng viên đi tới từng nhóm, lắng
nghe, gợi mở và thăm dò xem nhóm nào làm việc hiệu quả hơn thì có thể mời nhóm
đó trình bày trước lớp, còn các nhóm khác lắng nghe rồi nhận xét. Khi có được
cả kỹ năng tự học và kỹ năng làm việc nhóm, các sinh viên sẽ có thói quen chủ
động và cầu tiến trong việc học.
3.2.5. Đánh giá hoạt
động nhóm
Tổng kết đánh
giá là khâu cuối cùng của hoạt động thảo luận. Sự
đánh giá và kết luận của giảng viên cũng tác động không nhỏ đến chất lượng làm
việc nhóm. Sau khi các nhóm làm việc cho ra các sản phẩm, nếu giáo viên đánh giá
chi tiết mặt tốt, chưa tốt của sản phẩm, so sánh các sản phẩm của các nhóm với
nhau để sinh viên nhận ra được những ưu, khuyết của mình, sau đó giảng viên nêu
lên kết luận (đưa ra chân lý khoa học) thì sinh viên sẽ hiểu sâu sắc và nắm
vững vấn đề; đồng thời sinh viên sẽ quyết tâm hơn trong lần làm bài tiếp theo.
Ngược lại, nếu giảng viên không đánh giá sản phẩm và sự làm việc của sinh viên
sẽ khiến sinh viên mất đi hứng thú và động lực làm việc và như vậy hoạt động
nhóm sẽ không thể có hiệu quả.
- SV tự đánh giá kết quả
làm việc của nhóm:
Có một thực tế
hiện nay là mặc dù giảng viên đã chia nhóm, phân công nhiệm vụ cho nhóm. Nhưng
nhiều sinh viên với thói quen ỷ lại vào các sinh viên khác đã không tham gia
làm nhóm ở nhà. Chỉ chờ các sinh viên khác làm rồi ngồi hưởng lợi.
Đặc biệt với
việc đào tạo theo học chế tín chỉ như hiện nay, tỷ lệ điểm kiểm tra chiếm tới
50%.
Nhưng
giảng viên chỉ có thể biết được sự đóng góp của các sinh viên trong nhóm tại
lớp. Còn những thảo luận tại nhà thì sẽ không nắm được. Vì vậy sẽ phân công
nhiệm vụ của nhóm là tự cho điểm các thành viên trong nhóm về những đóng góp
của mỗi thành viên để hoàn thành bài nhóm tại nhà. Và cả những đóng góp của
từng thành viên trong nhóm tại lớp.
- Các nhóm đánh giá kết
quả làm việc của nhau:
Hãy
để các nhóm tự cho điểm lẫn nhau, đây là một kênh để đảm bảo cho sinh viên phát
huy khả năng tổng kết đánh giá. Và đồng thời cũng giúp cho GV có thể đưa ra kết
quả cuối cùng phù hợp nhất.
- GV đánh giá, nhận xét
kết quả làm việc của các nhóm:
Công
việc này có thể tiến hành song song hoặc sau khi đã có sự đánh giá giữa các
nhóm với nhau. Đánh giá khả làm việc của nhóm: Các nhóm làm việc có khoa học
hay không. Những ai tích cực, những ai lười biếng hay làm chuyện riêng, cần rút
kinh nghiệm gì,… Giáo viên nên nhận xét cụ thể, khách quan và tốt nhất nên cho
điểm để khích lệ tinh thần học tập của sinh viên.
Để
tránh tình trạng ỷ lại, chây lười của một số SV trong HĐN, cần đánh giá kết quả
HĐN không chỉ dựa trên thành tích chung của cả nhóm mà còn dựa trên sự đóng góp
của từng thành viên trong nhóm. Điểm trung bình của cả nhóm dựa trên chất lượng
HĐN (mức độ am hiểu vấn đề, kỹ năng diễn đạt/trình bày, trả lời câu hỏi, tinh
thần hợp tác giữa các thành viên trong nhóm). Điểm của từng SV được tính trên
cơ sở điểm trung bình của nhóm có tính đến mức độ đóng góp của từng cá nhân
đóng góp vào HĐN.
3.2.6 Vai trò của người giảng viên
Hãy tạo nên một không khí lớp học thật sôi nổi và thoải
mái bằng cách tăng cường sự đối thoại giữa giảng
viên và sinh viên. Người giảng viên bên cạnh việc cung cấp những kiến thức từ
sách vở, cần cung cấp cho sinh nhiều kiến thức thực tế. Trong các giờ học cần
tiến hành lồng ghép những kiến thức thực tế thu thập được từ internet, tivi,
sách báo cho sinh viên. Việc cung cấp những kiến thức như vậy sẽ giúp cho các
em cảm thấy hứng thú hơn trong giờ học.
Trong việc làm
nhóm của sinh viên, giảng viên vẫn phải có một nhiệm vụ quan trọng là tổng kết
lại các vấn đề đã thảo luận, đánh giá những ý kiến đúng sai và giải quyết mọi
thắc mắc của sinh viên xung quanh vấn đề đó. Việc tổng kết này rất quan trọng
vì sẽ giúp cho sinh viên nắm được những kiến thức cơ bản cần thiết.
Bên cạnh đó,
để sinh viên có thể làm tốt được vai trò của mình thì giảng viên cần phải cung
cấp đầy đủ các tài liệu tham khảo cho sinh viên, để các em có thể tự học tập và
nghiên cứu.
Một yêu cầu nữa là giảng
viên phải am hiểu sâu sắc nội dung dạy
học, làm chủ kiến thức, biết chế biến
nó theo ý đồ sư phạm và biết cách truyền tải nó đến với sinh viên. Giảng viên
phải có khả
năng giảng dạy, lòng nhiệt thành. Phải biết không ngừng cập nhật thông tin mới và biết vận dụng nó vào
công tác giảng dạy của mình. Có như vậy, giảng viên mới có thể giúp sinh viên tích
cực, chủ động, phát huy khả năng sáng tạo trong quá trình học tập. Giảng
viên có nhiều kiến thức, có nhiều cách tổ chức và trình bày ngắn gọn, sáng tỏ
cùng với sự nhiệt tình trong thảo luận nhóm
sẽ tạo điều kiện truyền đạt kiến thức
cho sinh viên một cách hiệu quả và thành công.
III. Kết luận
Với nội dung
báo cáo này nhằm trao đổi thông tin về thực trạng và kinh
nghiệm tổ chức hoạt động học tập theo nhóm trong giảng dạy theo học chế tín chỉ.
Phương pháp dạy học theo nhóm có nhiều hiệu quả tích cực trong việc nâng cao
chất lượng giảng dạy, đào tạo ở bậc đại học. Tuy nhiên, việc áp dụng phương
pháp này ở Đại học Nha Trang còn nhiều hạn chế. Để cải thiện chất lượng đào tạo
đại học hiện nay, bản thân mỗi GV, Bộ môn, Khoa, Nhà trường và Bộ Giáo dục - Đào
tạo cần có những biện pháp thiết thực khắc phục các hạn chế nói trên, nhằm
nhanh chóng đưa nền giáo dục đại học ở Việt Nam phát triển, hội nhập cùng các
nước trong khu vực và thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Lê Văn Hảo, Phương pháp pháp dạy học dựa trên vấn đề lý
luận và ứng dụng.
2. TS. Lê Văn Hảo, Bài giảng lớp bổ túc nghiệp vụ sư phạm 2011.
3. Trường Đại học Nha Trang ,
Sổ tay phương pháp giảng dạy và đánh giá
(2010).
4. Lê Công
Triêm (chủ biên), Nguyễn Đức Vũ, Trần Thị Tú Anh (2002), Một số vấn đề hiện nay của phương pháp dạy học đại học, NXB GD, Hà
Nội.